First Comes Marriage

Chương 1



Warren Hall thuộc Hampshire, một điền trang lớn đã qua tay nhiều thế hệ bá tước dòng họ Merton, bao bọc xung quanh là một khu vườn mênh mông tươi đẹp. Ở một góc khuất nẻo của điền trang có một nhà thờ nhỏ. Đến nay hầu như chỉ sử dụng cho những đám cưới trong họ, lễ rửa tội, và những đám tang vì đã có một nhà thờ khá lớn ở ngôi làng kế bên dành cho việc phụng sự Chúa hàng ngày. Nhìn chung đó là một nơi rất đẹp, đặc biệt là trong mùa xuân và mùa hè. Khi cây cối rợp lá và trổ hoa và cỏ thì xanh ngát và những bông hoa mặc sức khoe sắc ở các hàng rào và ngoan hiền trong những luống đất ven con đường mòn dẫn tới những cánh cửa nhà thờ.

Nhưng bây giờ mới đầu tháng hai, còn quá sớm trong năm ngay cả với những bông hoa giọt tuyết và hoa anh thảo đầu mùa. Và hôm nay trời đang mưa. Một cơn gió lạnh hất những cành khô trụi lá trên cây vào bầu trời xám xịt. Đây là một kiểu thời tiết khiến những người thức thời sẽ ở lì trong nhà trừ khi công việc khẩn cấp buộc họ phải ra ngoài.

Người đàn ông đang đứng trong nghĩa trang hình như không cảm thấy cái lạnh hay mưa hay tiếng gọi của những người ở trong nhà. Cũng không phải anh đang thưởng ngoạn phong cảnh. Anh cầm chiếc mũ cao thành trong một tay, mái tóc đen hơi dài của anh dính chặt vào đầu và vầng trán. Nước mưa chảy thành dòng xuống mặt và cổ anh rồi thấm vào lớp vải của chiếc áo choàng cưỡi ngựa màu đen. Mọi thứ bao phủ quanh anh đều là màu đen, thực tế là chỉ trừ có gương mặt, và ngay cả nó cũng có màu ngăm ngăm và không mang chất Anh quốc nhiều lắm.

Cũng giống như khung cảnh xung quanh, nhìn anh có vẻ gì đó âm hiểm.

Anh là một người đàn ông trẻ, cao lớn, uyển chuyển. Gương mặt anh quá khắc nghiệt để được coi là đẹp trai - nó dài và hẹp với hai gò má cao và đôi mắt rất đen và chiếc mũi mà ở thời điểm nào đó trong đời anh nó đã bị gãy và không được nắn thẳng hoàn toàn. Vẻ mặt anh lạnh lùng và trông thật kinh khủng. Anh đang gõ nhẹ chiếc roi ngựa vào đùi.

Nếu có bất cứ người lạ nào ở gần đó, chắc chắn họ sẽ tránh xa anh ra.

Nhưng chẳng có một ai, chỉ có con ngựa của anh, đang được thả tự do ăn cỏ gần đó, có vẻ cũng không màng tới cái lạnh và mưa như ông chủ của nó.

Anh đang đứng trước một trong những ngôi mộ còn rất mới. Mặc dù sương giá mùa đông và gió đã che mờ sự tươi nguyên của đất đắp và khiến nó chỉ có một chút khác biệt với những ngôi mộ xung quanh. Ngoại trừ tấm bia xám trông vẫn còn mới tinh.

Đôi mắt người đàn ông dán vào hàng chữ thứ hai tới hàng cuối cùng của câu khắc trên bia - “mười sáu tuổi.” Và bên dưới nó, “nghỉ ngơi trong yên bình.”

“Anh ta đã tìm thấy người cần tìm, Jon ạ.” Anh khẽ nói với tấm bia. “Và điều kì cục là em sẽ mừng rỡ, đúng không? Em sẽ thấy hạnh phúc và vui sướng. Em sẽ đòi được gặp cậu ta, để làm bạn với cậu ta, để yêu quý cậu ta. Nhưng không có ai nghĩ đến chuyện tìm kiếm cậu ta cho đến khi em đã chết.”

Tấm bia im lìm không đáp và khóe miệng người đàn ông nhếch lên thành một nét nhăn nhó hơn là nụ cười.

“Bất cứ ai cũng được em yêu mến,” anh nói. “Thậm chí em còn yêu anh, đặc biệt là anh.”

Anh trầm tư nhìn vào nấm đất sơ sài bên dưới tấm bia và nghĩ về người em trai bị chôn sâu sáu tấc dưới đó.

Họ đã tổ chức lễ sinh nhật lần thứ mười sáu của Jon, chỉ có hai anh em, với tất cả những món ăn cậu thích nhất. Với những chiếc bánh tạc sữa trứng và bánh trái cây, và những trò chơi bài cậu yêu thích và trò chơi mất sức là trò trốn tìm kéo dài trong hai giờ đồng hồ cho đến khi Jon kiệt sức và rũ ra vì cười - điều khiến cho cậu dễ dàng bị tìm thấy khi đến lượt cậu đi trốn. Một giờ sau đó cậu vẫn còn cười sung sướng từ dưới những lớp chăn trên giường khi anh cậu thổi tắt ngọn nến và rời khỏi phòng cậu.

“Cám ơn anh vì bữa tiệc sinh nhật tuyệt vời, Con.” Cậu nói bằng giọng gần đây đã trầm trầm, những lời nói và vẻ mặt nghe trẻ con một cách vô lý. “Nó vui chưa từng thấy.”

Đó là điều mà năm nào cậu cũng tuyên bố.

“Em yêu anh, Con,” cậu nói khi anh trai cậu cúi xuống ngọn nến. “Em yêu anh nhiều hơn bất kì ai trên thế giới rộng lớn này. Em yêu anh mãi mãi về sau. Amen.” Cậu cười khúc khích trước trò đùa cũ kỹ. “Ngày mai chúng ta có thể chơi lại không?”

Nhưng khi anh trai cậu bước vào phòng cậu sáng hôm sau để chế giễu cậu vì tội dậy muộn khi giờ đây cậu đã mười sáu tuổi và gần như đã là một ông già, anh phát hiện ra Jon đã lạnh cứng. Cậu đã chết từ nhiều giờ trước.

Đó là một cú sốc nặng nề.

Nhưng không hẳn là ngạc nhiên.

Những đứa trẻ như Jon, bác sĩ đã cảnh báo cho cha cậu ngay sau khi cậu sinh ra, thường không sống được đến mười hai tuổi. Cậu bé có một cái đầu to và những đường nét bằng phẳng và nhìn giống người bệnh down một cách kì lạ. Cậu bụ bẫm và vụng về. Cậu chậm chạp trong việc học những kĩ năng cơ bản mà hầu hết trẻ con đều tiếp thu dễ dàng từ lúc ẵm ngửa. Trí óc cậu hoạt động rất chậm, mặc dù không phải bởi bất kì sự ngu dốt nào.

Cậu, tất nhiên, luôn bị gọi là thiểu năng bởi tất cả những người từng tiếp xúc với cậu - bao gồm cả cha cậu.

Có lẽ chỉ có một phương diện mà cậu vượt trội, và trong phương diện đó cậu cực kỳ xuất sắc. Cậu đầy tình yêu thương, luôn luôn và vô điều kiện.

Sau này và mãi mãi.

Amen.

Giờ thì cậu đã chết.

Và cuối cùng Con có thể sẽ rời khỏi nhà. Anh đã bỏ đi rất nhiều lần trước đó, mặc dù chưa bao giờ kéo dài được lâu. Lúc nào cũng có một lực hút không thể kháng cự kéo anh quay về, nhất là khi chẳng có một ai ở Warren Hall có thể tin tưởng dành cho Jon thời gian và sự kiên nhẫn cần thiết để giữ cho cậu được vui vẻ, mặc dù nó là một chuyện dễ dàng đến vô lý để làm. Bên cạnh đó, Jon luôn sầu não và buồn bã nếu như anh vắng mặt quá lâu và làm cho mọi người rối hết cả lên với những câu hỏi liên miên về ngày anh trở về.

Bây giờ mùa xuân đang đến và không còn gì giữ anh ở lại đây nữa.

Lần này anh sẽ đi hẳn.

Tại sao anh lại nấn ná lâu đến thế? Tại sao anh không bỏ đi ngay sau đám tang? Tại sao anh cứ đến đây hàng ngày trong mùa đông kể từ hồi đó? Một cậu bé đã chết đâu còn cần anh nữa.

Phải chăng điều cậu cần là cái chết?

Nụ cười - hay vẻ nhăn nhó của anh - trở nên méo mó hơn.

Anh không cần bất cứ ai hay bất cứ cái gì. Anh đã dành cả đời nuôi dưỡng sự thờ ơ. Bản năng sinh tồn của anh đòi hỏi anh điều đó. Anh đã sống ở đây hầu hết cuộc đời. Mẹ anh và cha anh, những người đã nuôi nấng anh ở đây, đang nằm trong ngôi mộ của họ bên cạnh mộ của Jon. Anh không nhìn về phía họ. Còn có rất nhiều em trai và em gái anh, không một ai trong số đó sống qua được tuổi ẵm ngửa - chỉ có mình anh, người con cả, và Jon, đứa con út. Đó là sự mỉa mai kì quái, hai đứa con không được mong muốn nhất lại sống sót.

Nhưng giờ Jon cũng đã ra đi.

Không bao lâu nữa sẽ có một người khác đến đây chiếm vị trí của cậu.

“Em có thể làm được mà không có anh không, Jon?” anh khẽ hỏi.

Anh cúi người tới trước và chạm bàn tay còn cầm roi ngựa lên đỉnh tấm bia. Nó lạnh và ướt và cứng rắn.

Anh có thể nghe thấy tiếng một con ngựa khác đang phi đến - con ngựa của anh hí lên đón chào. Quai hàm anh siết lại. Đó hẳn là anh ta. Anh ta không cho anh được ở một mình thậm chí là nơi này. Con không quay lại. Anh sẽ không chấp nhận sự hiện diện của người đàn ông đó.

Nhưng đó là một giọng nói khác gọi tên anh.

“Cậu đây rồi, Con.” Giọng nói mừng rỡ. “Tôi phải đoán ra mới đúng. Tôi đã tìm khắp mọi nơi. Liệu tôi có xâm phạm chuyện gì không?”

“Không.” Con thẳng người lên và quay lại nheo mắt nhìn lên Phillip Grainger, người hàng xóm và là bạn anh. “Tôi tới đây để chúc mừng tin tốt lành với Jon. Cuộc tìm kiếm đã thành công rồi.”

“Ah.” Phillip không hỏi cuộc tìm kiếm nào. Anh cúi xuống vỗ vào cổ con ngựa và ngăn không cho nó nhảy chồm lên. “Chà, nó là điều không thể tránh khỏi, tôi cho là vậy. Nhưng thời tiết khắc nghiệt thế này thì không nên đứng quanh quẩn trong nghĩa trang. Hãy tới quán rượu ba con chim và tôi sẽ đãi cậu một cốc bia. Có thể là hai cốc. Hoặc hai mươi. Cậu có thể mua cốc thứ hai mốt.”

“Một lời mời không thể cưỡng lại.” Con đặt chiếc mũ trở lại trên đầu, huýt sáo gọi con ngựa, và quăng mình nhảy lên yên khi nó chạy nước kiệu đến.”

“Vậy là cậu định rời khỏi đây hả?” Phillip hỏi.

“Tôi đã được lệnh xuất phát,” Con bảo anh, nụ cười toe toét có phần hung tợn. “Tôi phải đi trong vòng một tuần.”

“Ồ, tôi hiểu,” bạn anh nhăn nhó.

“Nhưng tôi sẽ không đi đâu hết,” Con nói thêm. “Tôi sẽ không trao cho anh ta niềm thỏa mãn đó. Tôi sẽ đi khi nào tôi muốn.”

Anh sẽ ở lại chống đối tính thỏa hiệp của mình và chống lại cái yêu cầu thẳng thừng kia để chuốc lấy rắc rối cho bản thân. Anh vẫn đang làm thế với thành công đáng kể trong cả năm qua.

Thực ra anh đã làm vậy trong cả cuộc đời. Đó là cách chắc ăn nhất để lôi kéo sự quan tâm của cha anh. Cái động cơ thật trẻ con, giờ anh lại nghĩ tới nó.

Phillip đang cười.

“Quỷ bắt cậu đi,” anh nói, “nhưng tôi sẽ nhớ cậu, mặc dù tôi có thể khá vui vẻ sáng nay mà không phải lùng sục khắp cả vùng để tìm cậu sau khi người nhà cậu bảo là cậu đã ra ngoài.”

Khi họ cưỡi ngựa đi, Con quay nhìn lại lần cuối ngôi mộ của em trai.

Một cách ngớ ngẩn, anh tự hỏi liệu Jon có cảm thấy cô đơn sau khi anh đi không.

Và liệu anh có thấy cô đơn không.

Người dân trong vòng bán kính năm dặm của ngôi làng Throckbridge ở Shropshire ở trong tâm trạng phấn khích cao độ đến cả tuần hoặc hơn trước ngày 14 tháng 2. Ai đó - hình ảnh chính xác của một người còn dùng dằng mặc dù không dưới nửa tá lần tuyên bố mình đã dứt khoát - đã nêu ý kiến tổ chức một buổi họp mặt ở những căn phòng tầng trên của quán trọ trong làng nhân dịp kỉ niệm ngày lễ Valentine vì cảm tưởng như Noen đã trôi xa lắc, còn mùa hè - khoảng thời gian của lễ hội và khiêu vũ ở Rundle Park - vẫn là tương lai mù mịt.

Ý kiến đó được đưa ra bởi bà Raddle, vợ ông bào chế thuốc, hoặc ông Morffett, quản gia của sir Humphrey Dew, hay cô Aylesford, bà chị không chồng của ngài cha xứ, hoặc bởi một trong những người yêu cầu khác - không ai có thể lí giải rõ ràng tại sao một sự kiện giải trí như vậy lại không được nghĩ ra từ trước. Nhưng vì nó đã được nghĩ ra vào năm nay, nên chẳng một ai nghi ngờ rằng lễ hội Valentine sẽ trở thành một sự kiện thường niên trong làng.

Tất cả đều đồng ý rằng đó là một ý tưởng đầy sáng tạo, thậm chí - hay có lẽ là đặc biệt - cả những đứa trẻ chưa đủ tuổi để tham gia năm nay bất kể những lời phản đối ầm ĩ với các bậc cha chú đề ra luật. Người nhỏ nhất được tham dự hẳn là Melinda Rotherhyde, mười lăm tuổi và được phép tham gia chỉ vì cô bé là đứa con nhỏ nhất trong nhà Rotherhyde và không thể nào bắt cô ở nhà một mình. Và cô bé cũng được phép tham gia, một vài giọng nói chỉ trích thêm vào, là vì nhà Rotherhyde lúc nào cũng nuông chiều con cái.

Người trẻ nhất bên phía nam giới chắc chắn là Stephen Huxtable. Cậu mới mười bảy tuổi, mặc dù thật sự chưa có thắc mắc nào về việc cậu có tham gia hay không. Bất kể tuổi còn nhỏ, cậu vẫn là thần tượng của phái nữ ở mọi lứa tuổi. Melinda đặc biệt quyến luyến cậu từ ba năm trước khi cô bé bị buộc phải từ bỏ cậu như người bạn chơi quen thuộc vì mẹ cô cho rằng hình ảnh hai đứa nô đùa cùng nhau không còn phù hợp xét đến độ tuổi đang lớn của chúng và sự khác biệt giới tính.

Vào ngày tổ chức buổi họp mặt có một cơn mưa rả rích suốt nhiều giờ ban ngày, cho dù không còn gì tệ hơn thế bất chấp đợt tuyết rơi dày sáu feet mà ông Fuller già cả đã tiên đoán với rất nhiều cái nheo mắt và gật gù sau buổi lễ nhà thờ chủ nhật trước. Những căn phòng tầng trên quán trọ đã được lau bụi và quét dọn. Những cái chân nến gắn trên tường vừa vặn với những cây nến mới, củi được dự trữ trong những lò sưởi nằm đối diện nhau qua chiều dài căn phòng, và cây đàn dương cầm được kiểm tra xem các nốt còn chuẩn không - mặc dù chẳng ai nghĩ ngợi tới băn khoăn chuyện gì sẽ xảy ra nếu nó bị lạc nhịp vì người chỉnh dây sống cách đó những hai mươi dặm. Mr. Rigg đã mang cây violin của mình tới, chỉnh lại dây và chơi một đoạn để khởi động những ngón tay và xem xét cảm giác về căn phòng cùng độ vang âm của nó. Phụ nữ đem thức ăn với số lượng đủ để nhồi cho năm ngàn người no căng đến mức phải nằm dài trong một tuần - hoặc là hơn. Mr. Rigg tuyên bố như thế khi ông thử một cái bánh tạc nhân mứt và vài khoanh pho mát trước khi bị cô con dâu của ông nửa đùa nửa thật đánh cho vào tay.

Ở khắp nơi, phụ nữ và các thiếu nữ trong làng uốn tóc và làm quăn tóc suốt cả ngày và thay đổi ý kiến đến nửa tá lần về những chiếc áo dài họ sẽ mặc trước khi ổn định chắc chắn với cái lựa chọn ban đầu. Hầu như tất cả phụ nữ chưa kết hôn dưới ba mươi tuổi - và một số trong đó nhiều tuổi hơn - đều mơ về thánh Valentine và những khả năng về câu chuyện lãng mạn mà ngày của ông mang lại năm nay giá như...

Ôi, giá như có người đẹp như thần Adonis xuất hiện ở chính nơi đây và nhấc bổng họ khỏi mặt đất. Hoặc nếu không có khả năng đó, chỉ cần người nào quen sơ sơ mà trông được mắt sẽ hạ cố nhảy với họ và để ý đến vẻ quyến rũ mê hồn của họ...

Ồ, đây là ngày Valentine cơ mà.

Ở khắp nơi, những người đàn ông trong làng giả bộ lạnh nhạt uể oải với toàn bộ công việc chán ngắt của buổi tiệc nhưng lại đảm bảo cho đôi giày nhảy của mình đã được đánh bóng và những chiếc áo khoác buổi tối đã được chải phẳng và bàn tay người phụ nữ họ nhắm chọn đã nhận lời yêu cầu khẩn khoản của họ cho điệu nhảy đầu tiên. Rốt cuộc, thực tế đây là ngày Valentine là một lí do chắc chắn để các quý cô trở nên dễ thương hơn một chút trước lời tán tỉnh so với thường lệ.

Những người khác quá già cho việc nhảy nhót và tán tỉnh và mơ mộng lãng mạn vì lợi ích của họ thì trông chờ một buổi tụ tập tầm cỡ của buôn chuyện và chơi bài, và một bữa tiệc xa xỉ luôn là phần tuyệt nhất của các buổi hội họp trong làng.

Ngoại trừ vài cô cậu thiếu niên thấy bất bình, thì hiếm có một ai lại không trông chờ những cuộc chè chén vào buổi tối với sự thích thú ra mặt hay sự hăng hái được kìm nén lại.

* * *

Còn có một ngoại lệ đáng lưu ý khác.

“Một bữa tiệc làng, vì tình yêu của Chúa!” Elliott Wallace, tử tước Lyngate, ngả người ra trong ghế một giờ trước khi sự kiện diễn ra như đã định, một bên chân đi giày ống tựa dưới cánh tay và đung đưa sốt ruột. “Chúng ta có thể chọn một ngày bớt triển vọng hơn cho chuyến đi đến đây nếu ta cố gắng không, George?”

George Bowen, đang đứng trước lò sưởi để hơ ấm bàn tay, cười toe toét với những viên than đá.

“Khiêu vũ với một phòng đầy các cô thiếu nữ trong làng không phải ý tưởng của anh về sự giải trí dễ chịu sao?” anh hỏi. “Nhỡ đâu đó chính là điều chúng ta cần, để thổi bay những phiền phức sau cuộc hành trình dài.”

Tử tước Lyngate chiếu vào người thư ký và là người bạn của anh cái nhìn chằm chằm.

“Chúng ta? Dùng từ sai rồi, ông bạn thân mến,” anh nói, “Có thể anh cảm thấy cần nhảy tung tăng suốt đêm. Còn tôi thích một chai rượu ngon hơn, nếu mặt hàng ấy có thể vớt vát cho cái quán trọ này, một ngọn lửa cháy bập bùng qua ống khói, và một cái giường được chuẩn bị sớm sủa, thì chẳng cần sự trình diện thích hợp nào khác. Một vũ hội của làng không phải ý nghĩ của tôi về một hoạt động thích hợp hơn. Theo kinh nghiệm của tôi những cảnh thôn quê người ta viết ra với những cô thôn nữ không những đông đảo mà còn xinh đẹp đẫy đà với hai gò má đỏ hồng và nồng nhiệt là hoàn toàn hư cấu và không đáng giá như những trang giấy họ được viết nên. Anh sẽ nhảy với các bậc mệnh phụ có bộ mặt như mật thám và những cô con gái xấu xí làm duyên làm dáng của họ, George, hãy cảnh giác. Và nói những đoạn đối thoại khập khiễng với một tá quý ông có trí óc đần độn hơn cả Sir Humphrey Dew kia.”

Phải thừa nhận đó là một điều khó chịu khi nhắc đến. Sir Humphrey quả là tốt bụng và hiếu khách. Và ngờ nghệch.

“Vậy anh sẽ ở lì trong phòng ư?” Georges vẫn đang cười. “Họ có thể gây nên những âm thanh rung chuyển cả những miếng chêm và cười rộn rã tới nửa đêm đấy, ông tướng.”

Tử tước Lyngate lùa những ngón tay vào tóc, thở dài thườn thượt khi làm thế. Một chân anh tiếp tục đung đưa.

“Ngay cả như thế vẫn còn thích hơn bị dẫn đi lòng vòng phô trương như một con khỉ diễn xiếc,” anh nói. “Sao chúng ta không thể đến vào ngày mai, hả Georges? Ngày mai thì có hại gì.”

“Ngày hôm qua cũng vậy,” bạn anh chỉ ra với lẽ hiển nhiên. “Nhưng thực tế là chúng ta đã đến đúng hôm nay.”

Elliott cau có. “Nhưng nếu chúng ta đến từ hôm qua,” anh nói, “Có thể lúc này chúng ta đang trên đường về nhà, công việc đã hoàn tất, cậu bé của chúng ta đi theo cùng.”

“Tôi nghi ngờ nó sẽ không dễ dàng như anh dự kiến,” George nói. “Ngay cả những cậu bé cũng cần thời gian để tiêu hóa những tin tức mà họ không ngờ tới và để đóng gói hành lí và nói lời chào tạm biệt. Hơn nữa, còn có các chị gái của cậu ta.”

“Ba người,” Elliott chống khuỷu tay lên thành ghế và tựa má vào bàn tay. “Nhưng nhất định bọn họ sẽ chấp nhận toàn bộ tin đó với sự vui mừng như cậu ta. Sao mà khác được? Họ sẽ sung sướng đến ngây ngất ấy chứ. Họ sẽ vấp ngã vào nhau trong sự cuống quýt để sửa soạn cho cậu ta sẵn sàng lên đường với chúng ta sớm hết mức có thể.”

“Đối với một người cũng có các chị em gái,” George khô khan đáp. “Thì anh lạc quan khác thường đấy, Elliott. Anh thực sự tin là họ sẽ vui mừng đứng túm tụm trên ngưỡng cửa vào ngày hôm sau hoặc hôm sau nữa để vẫy chào người em trai duy nhất đi xa mãi mãi? Và rồi họ sẽ tiếp tục cuộc sống của mình ở nơi đây như thể không có chuyện gì bất thường xảy ra. Không còn cơ hội để họ mạng tất cả bít tất và khâu nửa tá áo sơ mi mới cho cậu ta nữa và... à, và làm hàng ngàn công việc hữu dụng và vô dụng khác.”

“Mẹ kiếp!” Elliott gõ những ngón tay xuống đùi. “Tôi đã cố bỏ qua khả năng họ có thể là mối phiền toái, George. Vì phụ nữ thường là như thế. Cuộc sống sẽ đơn giản và dễ dàng biết bao nếu không có họ. Đôi khi tôi cảm thấy tu viện thật là một nơi hấp dẫn.”

Bạn anh ngờ vực nhìn anh rồi phá lên cười với sự thích thú pha lẫn nhạo báng rành rành.

“Tôi biết một quả phụ nào đó sẽ để tang suốt đời và suy sụp không vực dậy nổi nếu anh định làm thế,” anh nói. “Chưa kể đến tất cả các quý cô chưa lấy chồng dưới bốn mươi tuổi trong xã hội. Cùng những bà mẹ của họ. Và chẳng phải anh đã cho tôi hay mới ngày hôm qua trong chuyến hành trình đến đây là nhiệm vụ chính của anh trong suốt mùa vũ hội sắp tới là phải chọn được một cô dâu sao?”

Elliott nhăn mặt. “ồ phải,” anh nói, những ngón tay dừng lại một lát rồi lại tiếp tục gõ nhanh hơn. “Tu viện có thể vẫy gọi với lời mời chào đáng thèm muốn, George, nhưng anh nói cũng đúng, bổn phận dứt khoát sẽ hét lên ngăn cản, trong giọng nói không thể lầm lẫn của ông nội tôi. Tôi đã hứa với ông hồi giáng sinh...và tất nhiên là ông ấy cũng đúng. Đã đến lúc tôi phải kết hôn. Và việc đó sẽ hoàn thành trong năm nay vào khoảng thời gian trùng với sinh nhật thứ ba mươi của tôi. Những điều khó chịu, sinh nhật thứ ba mươi.”

Anh quắc mắt khi mường tượng trước sự kiện vui vẻ ấy, và những ngón tay anh bấm sâu vào đùi thành những vết hằn nhất định.

“Mong ước đã bị bóp chết,” anh nói thêm.

Nhất là từ khi ông anh đưa ra ý kiến rõ ràng trong việc thông báo cho anh rằng Mrs. Anna Bromley Hayes, tình nhân của Elliott đã được hai năm, hoàn toàn không làm cô dâu của anh được. Không phải là anh cần ông nói cho anh nghe điều đó. Anna xinh đẹp và gợi tình và có kỹ năng phi thường trong nghệ thuật phòng the, nhưng cô cũng có một chuỗi những người tình trước anh. Vài người trong số họ đối với Bromley Hayes vẫn còn sống động. Và cô chưa bao giờ giữ bí mật về những chuyện yêu đương của mình. Cô tự hào về chúng. Không nghi ngờ gì là cô dự định sẽ tiếp tục nối dài chúng với nhiều người tình hơn không chỉ riêng anh vào thời điểm nào đó trong tương lai.

“Thế là tốt,” George nói. “Vì nếu như anh vào tu viện, Elliott, chắc chắn anh sẽ cần một thư ký và tôi sẽ bị hất khỏi công việc béo bở ấy. Tôi ghét điều đó.”

“Hmm,” Elliot hạ chân xuống sàn rồi gác nó lên chân kia để tựa chỗ mắt cá đi giày ống lên đầu gối.

Anh ước gì mình không nghĩ đến Anna. Anh đã không được nhìn thấy cô - hay, chủ yếu hơn, ngủ với cô - từ trước giáng sinh. Đó là khoảng thời gian dài tồi tệ. Đàn ông không được tạo ra để sống chay tịnh, anh đã kết luận như thế từ lâu - thêm một lí do nữa để tránh xa sự quyến rũ của tu viện.

“Ba chị em họ rất có thể sẽ hiện diện ở buổi tiệc tối nay,” George nói. “Chẳng phải sir Humphrey đã bảo tất cả mọi người và con chó của ông ta sẽ có mặt - hoặc những lời tương tự như thế hay sao? Có lẽ cậu bé cũng có ở đó.”

“Cậu ta còn quá trẻ,” Elliott nói.

“Nhưng chúng ta đang ở vùng nông thôn,” bạn anh nhắc anh, “và cách xa tầm ảnh hưởng của tất cả những gì tân tiến. Tôi cá là cậu ta sẽ có mặt ở đó.”

“Nếu anh nghĩ khả năng ấy thuyết phục được tôi tham dự,” Elliott nói, “Anh nhầm lớn rồi, George. Tôi sẽ không nói chuyện công việc với cậu ta dưới ánh mắt quan tâm của cả cái làng toàn người đưa chuyện này, vì tình yêu với Chúa.”

“Nhưng anh có thể theo dõi cậu ta,” George nói. “Cả hai ta. Và các chị gái của cậu ta nữa. Bên cạnh đó, ông bạn, chẳng phải sẽ có vấn đề với sự vắng mặt của anh khi Sir Humphrey Dew đã nóng lòng đến thăm viếng anh ngay khi tin anh đang ở đây bay đến tai ông ấy? Và khi ông ấy đích thân tới mời chúng ta dự tiệc và đề nghị hộ tống chúng ta lên tầng trên và trình diện chúng ta với tất cả những người danh giá? Dự đoán của tôi đó là tất cả mọi người không trừ một ai. Ông ấy sẽ không thể cưỡng lại.”

“Tôi có trả tiền để anh trở thành lương tâm của tôi không, George?” Elliott hỏi.

Nhưng George, còn lâu mới bị uy hiếp, chỉ cười khúc khích.

“Mà thế quái nào ông ấy phát hiện chúng ta ở đây?” Elliott hỏi, càng lúc càng rơi vào tâm trạng tồi tệ. “Chúng ta đến cái làng này và vào quán trọ này chưa đầy hai giờ trước, và không một ai biết chúng ta sẽ tới.”

George xoa hai bàn tay vào nhau gần ngọn lửa và rồi kiên quyết quay về hướng phòng mình.

“Chúng ta đang ở nông thôn, Elliott,” anh nói lại lần nữa, “Nơi tin tức truyền đi trong gió và từng ngọn cỏ và mọi hạt bụi và miệng lưỡi của tất cả mọi người. Chắc chắn cô rửa bát hèn mọn nhất lúc này đã biết anh ở Throckbridge và đang cố gắng đến tuyệt vọng - và vô ích - để tìm ra một người khác vẫn chưa biết. Và mọi người đều sẽ biết anh được mời đến buổi tiệc theo lời mời đặc biệt của Sir Humphrey Dew. Anh định làm cho họ thất vọng bằng cách giam mình trong phòng sao?”

“Lại nhầm đại từ rồi,” Elliott nói, giơ một ngón tay lên. “Tôi không phải người duy nhất họ nghe nói. Mà có cả anh nữa. Anh đi mà tiếp đãi họ nếu thấy phải làm vậy.”

George chắt lưỡi trước khi mở cửa phòng mình.

“Tôi chỉ là người bình thường,” anh nói, “có lẽ sẽ được hiếu kì như một người lạ mặt, nhất là khi tôi đến một mình. Nhưng anh là một tử tước, Elliot, cao hơn Dew rất nhiều bậc trong cái nấc thang xã hội. Nó sẽ giống như đức Chúa trời giá lâm trước mặt bọn họ.” Anh dừng lại một thoáng rồi cười. Từ Chúa trong ngôn ngữ xứ Wales là Duw - mẹ tôi luôn nói từ đó - D-U-W, nhưng phát âm tương tự như cái tên của ngài tòng nam tước của chúng ta. Và anh lại ở trên ông ấy. Elliott. Đó là một cú huých chấn động, ông bạn ạ, với ngôi làng bình yên này. Có lẽ họ chưa bao giờ được dán mắt vào một vị tử tước hay trông chờ một chuyện như vậy trước đó. Anh nỡ lòng nào từ chối cho họ cơ hội nhìn anh lấy một lần? Tôi phải đi thay quần áo thôi.”

Anh ta vẫn còn cười hớn hở trước khi đóng cánh cửa phòng lại sau lưng.

Elliot quắc mắt với cánh cửa trơ trơ.

Hai người bọn họ đến đây vì một công việc. Elliot vô cùng bực mình với mọi chuyện. Sau một năm dài lê thê chán nản đã khiến cuộc sống của anh bị lộn nhào, anh đã trông chờ sớm được thoát khỏi sự tẻ nhạt phát ngấy của những bổn phận đột ngột đặt lên vai anh sau cái chết bất ngờ của cha anh. Nhưng bổn phận đó, do công sức tìm hiểu và điều tra của George gần đây mới phát hiện ra, còn lâu mới kết thúc. Sự khám phá đó không phải là tất cả nguyên do khiến tâm trạng Elliott hầu như lúc nào cũng cáu kỉnh.

Anh không nghĩ cha anh sẽ chết sớm như vậy. Cha của cha anh, rốt cuộc, vẫn còn sống và sức khỏe rất dồi dào, và dòng dõi phái nam nhà anh thì nổi tiếng vì tuổi thọ từ những thế hệ trước. Elliot đã hi vọng trong nhiều năm nữa anh vẫn thong dong đứng chờ mỏi gối và tận hưởng cuộc sống thảnh thơi của một chàng công tử thành phố mà không có bất kì gánh nặng nào của trách nhiệm nghiêm túc.

Nhưng đột ngột anh có chúng, lâu hoặc mau - giống như trò chơi trốn tìm thời thơ ấu.

Chúng đang đến, lâu hoặc mau.

Cha anh đã chết một cách nhục nhã trên giường nhân tình của ông, một sự thật đã trở thành một trong những trò cười dai dẳng hơn trong giới quý tộc. Nó kém vui vẻ hơn đối với mẹ Elliott - thực tế là không vui chút nào, mặc dù bà đã biết từ lâu, cũng như tất cả mọi người, sự lăng nhăng của chồng mình.

Tất cả mọi người trừ Elliott.

Giống như tuổi thọ, nam giới dòng họ nhà anh cũng nổi tiếng vì những cô nhân tình dài hạn và những đứa trẻ họ sinh ra để thêm vào với các bà vợ và những đứa con hợp pháp. Mối quan hệ bất chính của ông anh chỉ kết thúc với cái chết của cô nhân tình từ mười năm trước. Kết quả của mối quan hệ đó là tám đứa trẻ. Cha anh thì để lại năm đứa, tất cả đều được chu cấp đầy đủ.

Không ai có thể buộc tội những người đàn ông nhà Wallace vì đã không làm nhiệm vụ gia tăng dân số cho đất nước.

Anna không có đứa con nào - với anh hay bất cứ ai. Elliott ngờ rằng cô biết cách ngăn ngừa việc thụ thai, và anh mừng vì điều đó. Anh cũng không có con với bất kỳ cô nhân tình nào khác.

Anh đã có thể cử George xuống đây một mình, anh ngẫm nghĩ, tâm trí quay về tình huống hiện tại. Bowen hoàn toàn có khả năng tự mình thực hiện công việc. Elliot không cần phải đích thân đi. Nhưng một khi bổn phận đã bắt tay vào, anh nhận ra, áp đặt cái chuẩn mực ảm đạm về danh dự của nó, nên anh phải ở đây, trong một vùng đất hẳn là rất xa xôi hẻo lánh ngay cả có đẹp như tranh - hoặc sẽ đẹp khi mùa xuân quyết định phô ra bộ mặt của nó như George tin tưởng.

Họ trọ tại quán trọ duy nhất của Throckbridge, mặc dù nó chỉ là một cơ sở kinh doanh mộc mạc không có sự khoe khoang hay thanh lịch - thậm chí nó còn không có trạm đổi ngựa. Họ đã dự định làm xong việc trước lúc trời tối. Elliott hi vọng sẽ được lên đường trở về vào ngày mai mặc dù George đã dự báo phải mất thêm một ngày, có thể là hai, là một khả năng dễ thấy - và thậm chí như thế cũng là một phán đoán quá lạc quan.

Nhưng cái quán trọ này có một đặc tính tai hại, như tất cả các quán trọ miền quê khác, quỷ tha ma bắt. Nó có một phòng hội họp ở tầng trên. Và những căn phòng đó sẽ được sử dụng cho buổi tối nay. Anh và George vớ phải vận rủi hiếm thấy khi đến đúng ngày làng tổ chức vũ hội. Thật sự chẳng ai trong bọn họ nghĩ rằng những người dân một ngôi làng hẻo lánh của nước Anh có thể nảy ra ý tưởng tổ chức lễ kỷ niệm ngày Valentine. Thậm chí Elliott còn chẳng để ý hôm nay là ngày Valentine nữa, vì Chúa.

Căn phòng vũ hội nằm ngay trên đầu anh khi anh tiếp tục ngả người ra trong chiếc ghế cạnh lò sưởi bất chấp thực tế nó không phải là thứ đồ gỗ thoải mái cho lắm và lò sưởi cần nhiều than hơn và dây kéo chuông nằm ngoài tầm tay của anh. Phòng vũ hội cũng nằm ngay phía trên phòng ngủ của anh. Chúng nằm phía trên tất cả. Chẳng cách nào thoát được những âm thanh và những chuyển động của bước chân nhảy rầm rầm trên đầu anh cho tới nửa đêm. Tai anh sẽ bị tấn công bởi âm nhạc rộn rã - không nghi ngờ gì là được chơi rất kém và không chuyên - và những giọng nói ầm ĩ và tiếng cười ầm ĩ.

Quả thực anh sẽ gặp may nếu có thể chợp mắt ngủ một chút. Còn gì khác để làm ở nơi khỉ ho cò gáy này ngoài ngủ? Thậm chí anh còn không mang theo một quyển sách nào- một sơ sót lớn.

Sir Humprey Dew, người Elliott chưa từng gặp trước buổi chiều nay, là kiểu quý ông hỏi một nghìn câu rồi tự mình trả lời chín trăm chín mươi chín câu. Ông hỏi bọn họ liệu họ có ban cho dân làng vinh dự bằng việc tham gia buổi vũ hội không và cam đoan với họ rằng ông rất lấy làm cảm kích vì sự chiếu cố của họ đã làm vẻ vang cho địa vị xoàng xĩnh của ông và hàng xóm láng giềng. Ông hỏi bọn họ liệu ông có thể đến đón họ lúc tám giờ không và cam đoan rằng họ đang cho ông nhiều vinh dự hơn là ông có thể đáp lại. Ông hỏi bọn họ liệu sau đó ông có thể giới thiệu họ với một số người hàng xóm được chọn lọc của ông không và cam đoan rằng họ sẽ không hối tiếc khi làm quen với những con người dễ chịu và đáng mến đó, mặc dù không một ai dễ chịu và đáng mến bằng bọn họ, đương nhiên là thế. Lady Dew sẽ vô cùng vui sướng trước sự hạ cố tử tế của họ, cả những cô con gái và con dâu ông cũng vậy. Ông sẽ sống trong sự hồi hộp thích thú trước sự kiện lúc tám giờ đó.

Suýt nữa Elliott đã từ chối thẳng thừng. Anh thường không chịu nổi những trò ngu xuẩn. Nhưng anh đã dự định đơn giản là không tham gia buổi tiệc mà ở lì trong phòng khi ngài tòng nam tước đến và gửi lời xin lỗi của mình qua George. Nói cho cùng thì có những thư ký để làm gì?

Đôi khi để họ quay sang đâm chọc lương tâm ông chủ của họ - quỷ bắt họ đi.

Vì tất nhiên là George nói đúng. Elliott Wallace, tử tước Lyngate, - chết tiệt! - là một quý ông. Anh đã ngụ ý chấp nhận lời mời bằng việc không thốt ra lời từ chối dứt khoát. Giờ thì anh sẽ không phải là người lịch sự khi giam mình tách biệt trong phòng trọ một cách đáng ngờ. Và nếu anh không tham gia buổi liên hoan ồn ào đó, thì dù sao anh cũng vẫn bị họ quấy rầy cả đêm và ở trong tâm trạng khó chịu khi tất cả kết thúc. Tệ hơn - anh sẽ cảm thấy có lỗi.

Quỷ tha ma bắt tất cả bọn họ.

Và cậu bé ấy rất có khả năng tham dự buổi tiệc, nếu George nói đúng. Các chị gái cậu thì gần như chắc chắn sẽ đến. Cũng là dịp tốt để biết mặt họ tối nay khi cơ hội đã có sẵn, để có được vài ấn tượng về họ trước khi gặp họ ngày mai.

Nhưng Chúa phù hộ, có phải anh được trông mong sẽ khiêu vũ?

Để vui đùa với những bà có chồng và các cô thiếu nữ.

Trong ngày Valentine?

Chắc chắn là không. Anh không thể hình dung ra một viễn cảnh phi thực tế hơn.

Anh đặt tay lên trán và cố thuyết phục bản thân là mình có một cơn đau đầu hay một cái cớ xác đáng nào đó phải nằm trên giường. Nhưng không thể. Anh chưa bao giờ bị đau đầu.

Anh thở dài thành tiếng.

Bất chấp điều anh đã nói với George. Nói cho cùng anh vẫn phải hiện diện tại cái vũ hội chết tiệt này, tránh được chăng? Sẽ là thập phần thô lỗ nếu anh bỏ đi, và anh chưa bao giờ thô lỗ một cách thẳng thừng. Không một quý ông đích thực nào làm thế.

Đôi khi - và càng ngày càng thường xuyên hơn trong những ngày này - làm một quý ông thật là mệt mỏi.

Lúc này chỉ còn chưa đầy nửa giờ nữa cho anh trình diện tại cuộc vui tối nay. Mà người hầu của anh thường mất nửa giờ chỉ để thắt cà vạt của anh thành một nút thỏa mãn đầy đủ những tiêu chuẩn của anh ta.

Elliott thốt ra một tiếng thở dài khác và đứng dậy.

Trong tương lai anh sẽ không đi bất cứ đâu ra khỏi cửa nhà mình trong ngày 14 tháng hai - hay ra khỏi cửa nhà Anna.

Ngày Valentine, lạy Chúa!

Tiếp theo là gì?

Nhưng câu trả lời cũng rõ ràng đến đau khổ.

Buổi vũ hội làng! Đó là điều tiếp theo.